VIỆT NAM
NẠN NHÂN NGÀNH LUẬT
DƯỚI CHẾ ĐỘ DÃ MAN
CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Sự hủy hoại và tàn sát những người trong giới Luật là một sự mất mát tai hại cho dân tộc Việt Nam và là một tội ác lớn đối với nhân loại.
LS Nguyễn Tường Bá
NHỮNG NGÀY VUI TRONG TṚAI TÙ CỘNG SẢN
TP Nguyễn Hữu Thụy
Tưởng nhớ
Những người trong Gia đình Tư pháp Việt nam đã thiệt mạng
dưới chế độ cộng sản dã man tàn bạo.
LS Đoàn Thanh Liêm
Ngành Tư pháp của Việt nam Cộng hòa bao gồm hệ thống các Tòa án Dân sự, Tòa án Hành chánh, Tòa án Quân sự - với các nhân viên gồm Thẩm phán, Lục sự, Thư ký v.v... Giới Luật sư được tổ chức thành hai Luật sư Đòan Tòa Thượng Thẩm Sài gòn và Tòa Thượng Thẩm Huế.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đa số các vị Thẩm Phán thuộc Tối Cao Pháp Viện, các Thẩm phán thuộc Bộ Tư Pháp, các Thầm phán thuộc hai Tòa Thượng Thẩm Sai Gon, Huế và các thẩm phán thuộc các Tòa Sơ Thẩm đểu phải đi tù " cải tạo" . Các Luật sư vì nằm ngòai guồng máy chánh quyền, nên không phải đi tù cải tạo. Tuy nhiên cũng có một số Luật sư bị đi tù vì lý do chính trị, điển hình như các Luật sư Trần Văn Tuyên, Nguyễn Lâm Sanh v.v...Ngòai ra có một số Giáo sư các Đaị Học Luật Khoa Việt Nam cũng bị đưa đi tù cải tạo như GS Bùi Tường Huân, GS Vũ Quốc Thông, GS Mai Văn Lễ. Cựu Đại sứ VNCH tại Anh quốc LS Lê Ngọc Chấn, vị Chưởng Khế tại Saigon Cụ Nguyễn Bích Lưu, cũng bị bắt đi tù cải tạo. Tất các vị trên đã qua đời sau khi ra tù.
Có khá nhiều Thẩm phán và Luật sư bị thiệt mạng trong các trại giam – cũng như lìa đời hay bị mất tích ngòai biển khơi trong các chuyến vượt biên. Năm 2015, nhằm kỷ niệm 40 năm (1975 – 2015) ngày Việt nam Cộng hòa bị bức tử, ta cần phải tổ chức những Lễ Tưởng niệm đối với những người đã thiệt mạng trong các nhà tù cộng sản hay đã chết hoặc mất tích trên đường vượt biên để tìm tự do. Riêng trong phạm vi của Gia đình Tư pháp, tôi ghi nhận được một số trường hợp của các nhân vật bị thiệt mạng trong các trại giam hay ngòai biển khơi – và xin được kê khai trong một danh sách sau đây:
Số người tuẩn tiết sau khi CS chiếm thủ đô Saigon
▪ Trần Chánh Thành, Luật sư
Số người chết trong ngục tù cộng sản:
▪ Dương Đức Thụy, Chánh Nhất Tòa Thượng Thẩm Saigon
▪ Hồ Minh, Thẩm phán Tòa án Quân sự
▪ Tống Đức Hoành, Thẩm phán Tòa án Quân sự Đà nẳng
▪ Lê Sĩ Giai, Luật sư
▪ Lưu Đình Việp, Chưởng Lý Tòa Thượng Thẩm Saigon
▪ Nguyễn Mạnh Nhụ, Phó Chưởng Lý Tòa Thượng Thẩm Saigon
▪ Nguyễn Ngọc Lời, Hội Thẩm Tòa Thượng Thẩm Saigon
▪ Nguyễn Văn Doanh, Chánh Án Tòa Sơ Thẩm Pleiku
▪ Ngô Quý Thuyết, Thẩm phán Tòa án Quân sự*
▪ Ngô Văn Vũ, Chánh Án Tòa Án Hành Chánh
▪ Phạm Văn Hiền, Chánh Nhất Tòa Thượng Thẩm Huế
▪ Phạm Quang Cảnh, Luật sư (bị CS xử tử)
▪ Trương Văn Trước, Chánh Án
▪ Vũ Tiến Tuân, Chưởng Lý tại Tối Cao Pháp Viện
▪ Vũ Trung Vịnh, Chánh Án???
▪ Trần Văn Tuyên, Thủ Lảnh Luật sư Đoàn Saigon
Số người chết hay mất tích trên đường vượt biên:
▪ Đặng Như Kỳ, Luật sư
▪ Đàm Quang Đôn, Luật sư
▪ Đặng Ngọc Lân, Lục sự
▪ Hùynh Văn Ngãi, Dự thẩm Tòa Sơ Thẩm Bình Tuy
▪ Nguyễn Hữu Lành, Giáo sư Khoa trưởng Đại học Luật khoa Cần Thơ
▪ Tô Lai Chánh, Thẩm phán Tòa án Quân sự*
▪ Vương Quốc Cường, Chánh án Tòa Sơ Thẩm Quảng Ngãi
▪ Vũ thị Bình Minh, Luật Khoa (Khóa 1964-1967)
Số người chết hay mất tích trong biến cố Mậu Thân tại Huế:
▪ Bữu Thạnh, Ủy Viên Chánh phủ Tòa án Quân sự Huế *
▪Nguyễn Khoa Hoàng, Chánh án phòng
▪Nguyễn Khoa Kiêm, Luật sư
Ghi chú : Danh sách này chỉ có tính cách tạm thời, xin các bạn đồng nghiệp đồng môn bổ túc cho đày đủ và chính xác hơn. Xin đa tạ.
LS Đoàn Thanh Liêm
LUẬT KHOA
MÁU VÀ NƯỚC MẮT
BURNING INCENSE IN MEMORY OF AN INDOMITABLE PRISONER, PROFESSOR BUI TUONG HUAN.
This morning, on Memorial Day, I dropped by my office at the newspaper Thoi Luan. On a desk I saw a thank you note from a client about a memorial service for the Professor, Bùi Từơng Huân.The thank you note caught my attention. “Did Professor Bùi pass away?” I wondered. I would find out that he passed away in the beginning of May in Saigon. My heart skipped a beat and my eyes welled up. Suddenly memories of Professor Bùi and the Re-Education camp overwhelmed me as if it was yesterday, with vivid details in images, colors and sounds.
In March 1978, the prisoners of the Communist Vietnamese regime were transferred from Yên Báy to Hà Tây. I was thrown into Cell F7. In that particular cell, four of us shared the small space: Captain Huỳnh Kim Bình (a Buddhist Military Chaplain), Colonel Nguyễn Văn Huấn (Deputy Commander of the Quang Trung Military Training Center), and Colonel Nguyễn Văn Thi (Chief of Staff to the Commanding Office of the Artillery). Two days later, the cell door opened and another prisoner was brought in. It was Professor Bùi Tường Huân.
Colonel Nguyễn Văn Huấn and Professor Bùi knew each other from before. They chatted. I listened. I learned that Professor Bùi was transferred from Thanh Hóa Re-Education Camp. After that, Colonel Nguyễn Văn Huấn introduced Professor Bùi to us. Professor Bùi was so skinny. I did not know him until 1975. I had only heard of him previously. Looking at him at that moment, I could not believe someone such as him could have ever been in power. He looked very pale. His clothes were nothing more than rags covering a walking skeleton. According to him, his condition was due to sustained malnutrition and untreated hemorrhoids. His eyes, however, were still flashed with a bright intellect with a gaze that attracted people. His lips were dry and cracked, but maintained a kind smile. I began to respect him once I saw his simple and easy going way.
The room was surrounded by bars and walls, like a cage. It was like a tomb that was meant to bury all five of us. The five of us sat and slept in a 10-square-meter cell day and night. The only way we could pass the time was to comfort each other and share our happy memories of the past, as well as prepare each other for what was to lay ahead for us. We shared everything, including our personal thoughts and feelings, the ups and downs of life; everything that we experienced individually became our common past.
From that miserable situation we were in, I recognized Professor Bùi’s bright personality and brave character and soul which pushed me not to merely call him my friend , but to bow my head and refer to him as “Teacher”, even though I had never been his student , even just for one lecture.
One time Colonel Nguyễn Văn Huấn asked Professor Bùi about his family. He responded that on the last day before the fall of the Republic of Viet Nam, he took his family to the Tân Sơn Nhất airport to seek refuge abroad. Only he remained. One person teasingly asked him if he stayed to become Vice Prime Minister.
Professor Bùi smiled and answered: “ At the end of April 1975, any Vietnamese citizen knew that it was going to be very hard to change the entire political situation. I stayed behind with aspirations to exert all my effort to serve the country. This was the time that country needed us most”.
We then all started to reminisce over that April, in 1975. The ones in power did not think twice about escaping abroad with their money and families. Many government offices had no leaders. The military had no one to lead. The soldiers stay put while their leaders fled. Colonel Nguyễn Văn Huấn had to lead rookies with no experience onto the battlefield to stop the invasion of the Việt Cộng into Sàigòn.
All the leaders of Sàigòn were looking for ways to escape. In the end, the old colonel had to surrender, following the orders given from the Presidential Palace. Colonel Nguyễn Văn Huấn became a prisoner in our cage, Cell F7. Professor Bùi had stayed in Vietnam, and explained: “My goal was to bring my knowledge and experience to share with the youth and help my country in any way possible. I did not want to escape abroad; otherwise my life would be worthless.”
During the last days of the Republic of Vietnam, Professor Bùi accepted the positions of Vice Prime Minister and Minister of Defense. When the Communists took over the Presidential Palace, they let him go home after the procedure of declaration of identity. When he came home he found that the maid who lived in his house for the last few years, was there in the Communist military uniform. She confirmed she was a revolutionary cadre, staying at his house the whole time as an informant for the Communists. She advised him to present himself to the authority as soon as possible for registration and escorted him to the local security police station with an AK-47.
He would later regret that before 1975, he did not pay attention to the warning of the former government’s security agency about the maid being a Communist cadre. That government did not dare to arrest her for fear it would create a misunderstanding of government hostility toward the An Quang Buddhist group of which he was a member .At the same time, Professor Bùi had the impression of being under close surveillance of the security agency, and so, he did not care to pay attention to its warning. By the time the Republic of Vietnam fell, and the reality showed, it was too late. . .
In 1978, almost all of the prisoners who were moved to northern Vietnam were suffering from starvation. I lost contact with my family, and so, I did not receive any food. Because of his transfer from Quảng Ninh Re-Education Camp to Thanh Hóa, then to Hà Tây, Professor Bùi also lost contact with his relatives. Of the five of us in Cell F7, Professor Bùi and I became
proletarians. One time he confided in me, “When I was in the Thanh Hóa Re-Education Camp, I was in the same cell with some students who resisted the Communist after the fall of the Republic of Vietnam. Even though we had to go through hard labor, spending time next to these young students was a happy time. All helped me with the heavy lifting, so that together we could complete the tasks assigned on time in order to avoid being reprimanded by the Communists. They even look for hemorrhoid medication for me. Here in Cell F7, I don’t have to do hard labor, but it’s boring.”
I was aware that professor regularly went hungry. He tried to hide his hunger from us but I could tell since whenever he got his one bowl of stale rice or a piece of manioc, he would eat it so voraciously that I could not hold back my tears. I was hungry like him, so I had pity for him like I had for myself, but I could not share what little I had. In the Re-Education Camp, hunger was common and that led to rowdy behavior of some prisoners. Watching his calm and serene attitude during these times of empty stomach made me admire him more. One day, in order to forget the hunger I asked him, “In order to succeed in politics, one needs a dispassionate mind and impassioned heart. One also needs to resort to chicanery. You, Teacher, have both an impassioned heart and mind . Why did you decide to go into politics?.”
The Professor gazed at me with nostalgia and love. He murmured like the whispering wind:
“Being Vietnamese citizens, who do not want their country to be prosperous and beautiful? If I just thought about myself I would have escaped with my family before the fall of Sàigòn. This is just karma.”
Another time I asked Professor Bùi about the Buddhist Group Ấn Quang and their responsibility, if any,for the fall of the Republic of Vietnam. He replied “I do not deny that the Ấn Quang Buddhist Group, symbolized by the Reverend Trí Quang, had
influenced my political career. In other words, I am a member that group. There was indeed regrettable misunderstanding caused by that group,. But I strongly deny the rumors that this group consisted of clandestine Communists. The Ấn Quang group had nothing to do with the Communists. We are just citizens of the nation of Vietnam.”
To prove his point he noted that he and Reverend Trí Quang and most of the leadership of the Ấn Quang Group were detained by the Communists. Professor Bùi was disappointed with acting President Dương Văn Minh’s order towards unconditional surrender without arrangement for handing over the government. But the reality was that in the Independence Palace on that day, even as Deputy Prime Minister and defense Minister, he was ordered to stick up his hands to surrender without any ceremony of turning over the government.
Life in prisons was full of sadness, but did not change his character. That was why from the beginning, I was very surprised by his positive and jovial attitude. One time as the five of us were trying to forget our intense hunger, professor Bùi told a joke. He calmly recited, as if in rhymes, the story of the Conference of Yalta in 1945 which started on February 4, 1945, During a week-end, the four leaders of four nations, President Roosevelt of the United State, Prime Minister Winston Churchill of the United Kingdom, Secretary General Joseph Stalin of Russia, and General Charles de Gaulle of France (though France was not actually part of the Conference) were riding together in a Jeep down the suburban road when they came across a cow that stood in the middle of the way,holding up traffic. The four stopped and made a bet as to who could be the first to make the cow move.
Charles de Gaulle disembarked and approached the cow. He told the cow, “If you move, I will get you the best milk and butter in France.” The cow remained stationary. De Gaulle gave up and went back to the car.
Next Winston Churchill approached the cow and caressed it from head to tail and spoke kindly to the cow, treating her the way a capitalist would treat a customer, and said: “Move away and I will ask the Queen to confer you a noble title.” The cow lied still. Churchill mumbled some more words without result and then gave up and went back to the car.
Next Roosevelt aggressively disembarked, approached the cow and barked at the cow in loud voice as if from a wealthy man: “If you move out quickly, I will give you one million dollars!” The cow stayed put. Roosevelt, feeling like it was an auction, offered five million dollars. The cow was still stupid like a cow. She still did not move. The President of the United States gave up and went back to the car.
Only then did Stalin slowly disembarked and approached the cow and whispered something into her ear. Suddenly the cow sprang up and ran off up the hill. Seeing what had just happened, the other three complimented Stalin profusely : “We don’t know what you said to the cow, but she was so frightened and ran away immediately with such a haste!” Stalin replied, “It was easy. All I told her was that ‘If you stay here for another second, I will send you to a Re-Education camp’ .”
In 1979 Professor Bùi was released. I congratulated him that he would one day be joining his family soon. A few months later we heard from visitors a rumor that Professor was flown on an aircraft from Saigon to France. But with this thank you note left on my desk, I realized that he died in Sàigòn and was therefore in Vietnam until his death.
Professor Bùi, my Teacher from Cell F7, had never left Vietnam. Now that he was gone, his body was cremated and his ashes remain in Vietnam. I do not have any proof, but from my heart, I believe that Professor Bui’s choice was always his Nation, Pride and Responsibility
* Originally written in Vietnamese by Mr. Nguyễn Vạn Hùng – in Thời Luận newspaper,San Diego, 1988. Translater : Bùi Tường Viêt.
___________________________________________________________________
Lời Phi Lộ: Để đáp ứng với sự thương mến của một số đồng môn và thân hữu muốn biết thêm về đời sống “học tập cải tạo”, người viết xin được đăng lá thư viết cho các bạn cùng trại.
LS Ngô Văn Tiệp
Các Chiến Hữu thân mến,
Đã mấy chục năm qua, thật lâu nhưng cũng thật mau đúng như câu“Thời gian như bĩnh câu qua cửa sổ”! Nhiều lần tôi muốn viết thư để chia sẻ và cám ơn các chiến hữu “đồng hành trên con đường đấu tranh” tại trại cải tạo Lý Bá Sơ. Một phần vì còn ám ảnh sự theo dõi của bọn “ăn-ten” trong tiềm thức, một phần vì mỗi lần nghĩ đến sinh họat trong trại thời đó đối với tôi như một cơn ác mộng . Đêm mồng 9 tháng giêng năm 1979, hình ảnh một người tù cải tạo bị còng 2 tay ra đằng sau, đi theo vết đèn pin của một tên công an Việt Cộng dẫn đường và một tên công an khác đi theo với khẩu súng dài sẵn sàng nhả đạn. Trên con đường mòn tiến sâu vào núi Mành tỉnh Thanh Hóa, giữa đêm khuya không một bóng người. Đặc biệt là được nghe tiếng vọng từ trong trại của các Anh Em trong trại “Yêu cầu thả Chí, Tiệp, Lạc”. Thóang xa thấy như có những tóan người di chuyển. Cứ như thế, tôi bị dẫn đi gần như suốt đêm hôm đó, lòng
cầu nguyện cho các chiến hữu đủ nghị lực để vượt qua những căm go do “bọn chúng” gây ra và mong cho gia đình mình cùng gia đình các chiến hữu được “chúng” để cho sống yên ổn nơi quê nhà, còn phần cá nhân mình chấp nhận tất cả. Nếu mình có ra đi thì vẫn còn Chí, Lạc và các chiến hữu. Điều an ủi lớn là có tất cả trên 500 bạn đồng hành đang đồng lòng với việc mình làm và đang đồng hô to “Yêu cầu thả Chí, Tiệp, Lạc”. Toàn trại bắt đầu một cuộc tuyệt thực trong trại cải tạo để đòi thả 3 đồng đội “Chí, Tiệp, Lạc”.
Xin viết ở đây để tri ân các chiến hữu đồng hành đấu tranh và để tưởng niệm đến những chiến hữu đã hy sinh tại trại Lý Bá Sơ cũng như tại các nơi khác vì lý tưởng tự do và dân chủ.
Bây giờ chúng ta mới có thể chia xẻ với nhau những gì đã xẩy ra và những mất mát mà chúng ta đã phải chấp nhận.
Nói về đời sống trong các trại cải tạo của Việt Cộng, thì đã quá nhiều người viết.
Riêng anh em chúng ta ngay từ ngày nhập trại vào tháng 5 năm 1975 đã chịu sự cai quản của bọn công an Việt Cộng, lẽ dĩ nhiên cách đối đãi khắc nghiệt hơn đối với các trại cải tạo do bộ đội Việt Cộng quản lý. Nhiều người chết vì bị hành hạ,đói và kiệt sức. Chúng ta là Cảnh Sát của Việt Nam Cộng Hòa nên bọn Việt Cộng xếp chúng ta vào lọai “ác ôn và có nợ máu với nhân dân”. Chính vì thế mà chúng đã áp dụng một chính sách trả thù rõ rệt. Nghĩ lại, chúng ta càng nên hãnh diện phải không các bạn ?
Tôi còn nhớ rõ là: chúng không cho chúng ta viết thư mà chỉ cho viết vài chữ như lời nhắn mà không được nói ở đâu, hoặc không được nói sức khỏe kém. Điều khôi hài là mặc dầu đang bị tù tội và hành hạ mà trong thư luôn phải có câu “cám ơn Cách Mạng” đã cho được “học tập cải tạo”. Ngày thì đi lao động khổ sai, đập đá trên núi, kiếm củi trong rừng, tối thì ngồi kiểm thảo.
Địa điểm đầu tiên là trại cải tạo Long Thành, rồi Quảng Ninh.Khi Trung Quốc đánh 6 tỉnh miền bắc, họ chuyển chúng ta về trại Lý Bá Sơ sát Núi Mành tỉnh Thanh Hóa . Đây là cứ điạ mà khi xưa Lê Lợi khởi nghiã, địa thế rất hiểm trở. Nơi đây có núi Mành cao và rừng xâu âm u, có cầu Chày nước độc. Dân ở đây có câu “cầu Chày cá chạy đứt đuôi” có nghiã là con cá chạy qua nơi đây cũng bị nước độc chảy mạnh đến nỗi đứt cả đuôi , để ám chỉ nước đã quá độc. Hơn thế nữa, còn có sự khắc nghiệt về khí hậu và địa thế. Tại nơi đây, anh em đã chết nhiều, vì thiếu ăn, lao động khổ sai giữa trời, thời tiết lúc thì nóng quá, lúc thì lạnh quá, dãi nắng dầm mưa, nên kiệt sức. Ngòai ra còn bị cùm kẹp dưới nhiều hình thức như: kiên giam, kỷ luật trong phòng kỷ luật hay kỷ luật trong phòng tối. Thậm chí có những người chết lúc nào mà không ai hay, khi bị kêu đi lao động, mới phát hiện là đã không còn thở từ lâu. Con số người chết cao hơn các trại cải tạo khác. Tổng cộng lên tới trên 50 người tức là trên 10% tổng số 500 người trong trại.
Hai cảnh ngậm ngùi được thấy trong lúc đi lao động mà chẳng ai quên được:
-Một người đàn bà kéo cầy thay con trâu và giống như con trâu. Đối với họ, đây là một sự cải tiến của “Cách Mạng”, người kéo cầy thay súc vật. Tôi còn nhớ khi mới đến trại, trước giờ đi lao động, một tên cán bộ kêu: “hai anh theo tôi đi lấy 2 xe “cải tiến” đi chở đá” ai cũng tưởng là có một loại xe đặc biệt nào đó để chở đá. Nào ngờ 2 người bạn của chúng ta khi trở lại phải kéo 2 cái xe bò. Lúc đó anh em mới hiểu : xe bò trước kia do bị kéo, nay có “sự cải tiến” là người kéo thay bò.
-Một cảnh khác, một tên cán bộ ngồi trên bờ ruộng vắt vẻo với cái điếu cầy nhả khói thuốc lào, người vợ thì đang lội bùn để bắt từng con cua dưới ruộng. Hỏi ra mới biết đây là “văn minh của cái rốn vũ trụ lòai người”, và như thế là dân chủ vì hôm qua người chồng làm công việc đó rồi thì hôm nay đến phiên người vợ làm không cần quan tâm đến khả năng và sức khỏe của người đàn bà. Ngườì đàn bà trông ra thật là già, miệng móm, tóc bạc, hỏi ra mới 31 tuổi.
Tối hôm đó, nhiều anh em xụt xùi nhưng không giám khóc vì sợ bị kiểm điểm. Phần vì thương người, phần vì thương cho vợ mình nơi quê nhà, đa số nếu tính đến ngày đó phần lớn là mới trên dưới 30. Ai cũng nghĩ hình ảnh vợ mình ngày nay nhờ “Cách Mạng Giải Phóng” chắc cũng như vậy.
Tôi còn nhớ rõ, hôm đó ở phân trại B, sau bữa ăn chiều vì anh em phải ăn sắn luộc (khoai mì) cả vỏ nên say nằm la liệt vì chất độc của vỏ củ sắn . Anh Cao Văn Bảy lúc đó làm nhà trưởng kêu cán bộ trại tới và yêu cầu cho ăn sắn phải lột vỏ để tránh ngộ độc.
Hôm sau một số Anh Em không đi lao động được vì bị nhiễm chất độc của vỏ sắn. Ban trực trại nhượng bộ tạm thời và ra lệnh cho nhà bếp lột vỏ sắn trước khi luộc, để tìm bắt những người mà chúng cho là cầm đầu anh em .
Trước hết là chúng bắt anh Nguyễn Hữu Thời vì trong một buổi đi làm về anh Thời đã mang trong người một số lá tre. Khi bị khám xét và hỏi lấy lá tre về trại để làm gì? Anh Thời trả lời là lấy lá tre về để ăn vì đói quá. Chúng cho là anh ta sách động chống đối và bôi xấu chế độ.
Sau đến, chúng bắt anh Cao Văn Bảy vì chúng cho là đã cầm đầu vụ yêu cầu lột vỏ sắn. Cả hai người đều bị biệt giam ở một chỗ khác (mỗi người một nơi). Sau đó, chúng có thay đổi là sắn được lột vỏ trước khi luộc. Một biện pháp được áp dụng là chúng cho biên chế lại các đội (“từ biên chế” này của Việt Cộng có nghiã là thay đổi phòng và thay đổi đội) và lọc các thành phần mà chúng coi là cứng đầu cho vào một đội trong đó có tôi, Chí và Lạc. Anh Trần Văn Chí, Phó Tỉnh Trưởng Tỉnh Vĩnh Bình, Anh Lê Quảng Lạc, Sĩ Quan Tình Báo Sở Tình Báo Trung Ương. Còn tôi, Luật Sư Tòa Thượng Thẩm Saigon rồi mới gia nhập ngành Cảnh Sát nên chúng cho là tôi làm việc cho CIA của Mỹ. Khi ở đội biệt lập, Lạc hay chui vào mùng tôi hỏi các vấn đề về luật pháp, nhân quyền, công ước Geneve và đồng thời bàn bạc về việc tranh đấu của anh em. Bọn “ăng-ten” biết và báo cáo là tôi thường nói chuyện và bàn bạc với Lạc vào ban đêm nên tôi và Lạc luôn bị theo dõi.
Các buổi tối lại bắt buộc tiếp tục kiểm thảo và phê bình. Tôi được anh em yêu cầu làm biên bản và ghi chép các đề nghị của anh em. Tôi còn nhớ tôi đã ghi chép các vấn đề yêu cầu trại cho viết thư, cho gia đình thăm nuôi và gửi quà, và trước mắt là yêu cầu cải thiện chế độ ẩm thực. Lúc đó ý kiến của tôi là những đòi hỏi chúng ta chỉ là những đòi hỏi về quyền căn bản của một một tù nhân chính trị và yêu cầu ban giám thị sớm giải quyết. Biên bản họp nào cũng yêu cầu trại cho biết hiện giam giữ Anh Cao Văn Bảy và anh Nguyễn Hữu Thời ở đâu.
Tối nào chúng cũng bắt họp và kiểm điểm và có công an đứng ở cửa sổ. Chúng thấy không yên nên lại một lần biên chế và chuyển tất cả về phân trại C. Kỳ này chúng tách Lạc và tôi ra và chuyển Lạc sang một đội khác, còn tôi và Chí chúng còn để cùng một đội. Lúc đó là vào khỏang ngày 7 tháng giêng năm 1979 . Khi sang trại này, chúng bắt học tập nội quy.
Tôi lại tiếp tục ghi biên bản các ý kiến của anh em, tiếp tục ghi các yêu cầu cũ chưa được trại giải quyết .Ý kiến của tôi lúc đó là chúng ta không cần học nội quy vì nội quy lúc đó là nội quy dùng cho tù hình sự. Yêu cầu phải có một nội quy khác dùng cho tù nhân chính trị là chúng ta.Tôi có yêu cầu trại phải áp dụng công ước quốc tế đối với các tù binh chiến tranh là chúng ta. Tất cả đều đồng ý với đề nghị của tôi là không chịu học tập nội quy lúc đó vì là nội quy của các tội phạm hình sự và ngày hôm sau bắt đầu không chịu đi lao động vì tù chính trị không phải đi lao động.
Gần bưã cơm chiều, cán bộ kêu tôi đi và gọi là “lên Ban giám thị làm việc”. Tại một căn phòng ở ngòai traị chúng bắt tôi viết kiểm điểm những điều làm trong trại nhất là các đòi hỏi của tôi và anh em. Tôi đã viết những yêu cầu của các anh em và của tôi và kết luận đó là những yêu cầu chính đáng.
Sau này tôi mới biết là bạn Chí cũng bị kêu đi sau tôi một khoảng thời gian ngắn. Tại một phòng khác, trong cuộc kiểm điểm và học nội quy, bạn Lạc đòi phải có sự hiện diện của cán bộ quản giáo mới chịu học tập nội quy. Tên cán bộ quản giáo đứng bên ngòai phòng nghe vậy, xông vào bảo ngưng không học tập chi nữa. Cũng tới giờ cơm chiều, Lạc bị kêu lên văn phòng, mọi người tưởng có người thăm nuôi Lạc.
Đến 9 giờ anh em trong phòng của tôi không thấy tôi và Chí về, liền đồng thanh hô to “yêu cầu thả Chí, Tiệp” .Tại phòng của Lạc, anh em mới vỡ lẽ là Lạc cũng bị bắt và tại đây, bạn Tùng làm ống loa kêu lớn để các buồng nghe rõ và hưởng ứng hô to “Yêu cầu thả Chí, Tiệp, Lạc”. Và từ đó tất các buồng thuộc phân trại C đề hô to “Yêu cầu thả Chí, Tiệp, Lạc”. Tòan trại tất cả các buồng tổng cộng trên 500 anh em đồng hô to lời yêu cầu trên. Đồng thời một đề nghị của bạn Tô Hòa Dương là thông báo cho các buồng là ngày hôm sau không ra khỏi phòng để điểm danh và tuyệt thực cho tới khi các anh em Chí ,Tiệp, Lạc được trả về phòng. Các buồng đều đồng ý làm theo.
Tiếng hô to của toàn trại tù chính trị làm chúng kinh ngạc. Sau này biết rõ là chúng phải di chuyển đám tù hình sự ở khu vực bên cạnh tới một nơi khác, đồng thời chúng huy động thêm quân đội và công an đến bao vây khu của chúng ta để đề phòng nổi loạn.
Đêm đó, ngày mồng 9 tháng giêng năm 1979, tôi nhớ là Việt Cộng đang đánh chiếm Campuchia và 2 ngày sau chúng chiếm được Nam Vang. Như trên tôi đã viết là lúc đó tôi chỉ nghe tiếng hô vang của anh em, còn những tiếng ồn ào ngoài trại là tiếng chúng di chuyển tù hình sự và tăng cường quân đội và công an để bao vây trại của chúng ta để đề phòng nổi lọan. Tôi bị dẫn đi vào miền núi Mành trên con đường mòn đầy cây cối hai bên, giữa lúc tôi đang cầu nguyện thì bỗng có một chiếc xe gắn máy trên xe có 2 người có lẽ là công an ở một nơi khác đến đuổi theo và kêu tên công an cầm đèn bấm nói nhỏ. Ngay sau đó tôi được dẫn qua một ngã rẽ và đi độ một tiếng đồng hồ sau về một nơi mà sau này mới biết là phòng kỷ luật của tù hình sự phân trại B. Sau khi cùm cả hai tay và hai chân, chúng vứt cho tôi một cái chăn và tôi thiếp đi vì đi quá lâu ngoài sương đêm và bị quá lạnh. Tới trưa hôm sau một tên tù hình sự và tên cán bộ chuyển tôi lên một căn buồng bề ngang độ 90 cm và dài độ 2 m. Đó là một phòng kho cạnh một phòng tù hình sự . Chúng để một tấm ván độ 60 cm và dài gần bằng chiều dài của phòng. Trên ván có đóng một thanh sắt để cùm chân. Tuần lễ đầu cùm cả hai tay lẫn hai chân. Hai tay cùm vào nhau và quặt ra đằng sau, còn hai chân thì cùm vào thanh sắt ngang. Lúc đó tôi phải nằm sấp. Chỉ được mở cùm tay 2 lần một ngày vào lúc ăn. Tên tù hình sự, lúc không có cán bô, y nói: Bộ Công An Nội Vụ không về kịp thì anh hai bị bắn đêm hôm qua rồi. Chính một số công an ở trại còn nói nhiều về ý định của trại định bắn cả Chí, Tiệp, Lạc đêm đó. Cuối cùng chúng cũng giết được Lê quảng Lạc sau khi chích một mũi thuốc chữa bịnh. Tôi được biết Lạc bị giam một khỏang thời gian thì thả về đội và sau lại bị giam lại vì một lá thư viết về nhà nói cho gia đình biết việc tranh đấu của trại. Chúng giam Lạc một thời gian rồi cho ra lao động và khi bị đuối sức phải xuống bệnh xá nằm thì anh em được tin Lạc chết sau khi chích “thuốc chữa bịnh”.
Phần tôi, bị giam gần một năm trong phòng tối và mỗi tháng được chúng cho ra tắm một lần, vấn đề vệ sinh chúng cho sử dụng một cái ống “bương” (giống như ống tre nhưng to hơn) để cả tiêu và tiểu. Ngày một “gô” nước vừa để uống và vừa để rửa. Hai lần một ngày, mỗi lần chúng cho ăn một chén (người bắc gọi là cái bát nhỏ bằng sành) hột mạch với nước muối hoặc một củ khoai lang. Chúng sợ dùng muối hạt để phá còng nên chỉ cho nước muối. Khi giam được độ 3 tháng thì nghe có tiếng la ở một buồng kho bên cạnh (sau này tôi mới biết phòng này kích thước như phòng của tôi và cũng không có cửa sổ gì và cũng tối om như phòng của tôi,). Đêm đó tôi bắt đầu liên lạc bằng dấu “morse” gõ vào tường thì được biết đó là một tù hình sự tên là Quang và anh ta là đàn anh trong một nhóm hình sự đang tuyệt thực để chống đối lại sự đối xử tàn bạo của cán bộ trại. Hai ngày sau, Quang muốn tôi giúp đỡ bằng cách tiếp nước cho Quang. Tôi đồng ý, đúng lúc Quang khoét qua tường được một lỗ nhỏ chỉ có thể đưa qua vừa một chiếc đũa. Hằng đêm khi có tiếng gõ hiệu ở tường, Quang truyền sang phòng tôi một ống nylon (có lẽ Quang dấu được là vì là một cái vòng của một cái mũ đem theo). Tôi để ống đó vào “gô” mà tôi để dành ½ “gô” nước để Quang hút. Khỏang 7 ngày sau, Quang tuyệt thực mà không sao, tên cán bộ trực trại ngạc nhiên và nghi ngờ nên xét phòng của tôi nhưng may mắn chúng không tìm ra được gì. Ba ngày sau Quang vẫn không sao và tôi lại bị xét phòng lần nữa, nhưng cũng không tìm ra. Đến buổi chiều hôm đó Quang được đem ra khỏi chỗ giam đó. Trưa hôm sau, tên “thi đua” hình sự đem cơm cho tôi báo cho tôi biết là Quang đã bị kẻ thù đóng đinh vào mắt và chết đêm hôm qua. Thì ra cái nham hiểm của cán bộ là đưa Quang về phòng nhốt chung với bọn có thù với Quang và đã bị thanh tóan.
Tôi không nhớ rõ có một lần trong thời gian tôi bị cùm ở nhà kho, một tên hình sự có nhét vào khe cửa cho tôi một lá thư do tay Lạc viết: “Tiệp ơi! Lạc đã gặp Bộ Nội Vụ và nhận là tranh đấu cho nhân quyền và chấp nhận tù 10 đến 15 năm”. Rồi không liên lạc được cho đến lúc nghe tin Lạc chết tại bệnh xá sau khi mũi chích thuốc chữa bịnh.
Được độ 3 ngày thì anh em kiệt sức và có hai người phản bội anh em và giả bộ lên văn phòng để trình kiến nghị, nhưng thực ra là để xin tị nạn và báo cáo lập công. Khi cán bộ trại nắm được tình hình nhờ hai tên “an-ten”, chúng tăng cường thêm công an điạ phương đến từng phòng luà hết ra và bắt làm đơn xin ăn cơm, nhưng anh em không chịu làm đơn. Chúng liền bắt dần đi khỏang 50 anh em đi qua trại B. Một số anh em trong số này bị đem xuống phòng kỷ luật cùm, số còn lại bị nhốt tại một buồng cạnh phòng giam của tôi.
Qua lỗ khe cửa tôi nhìn thấy anh em nhưng anh em không nhìn thấy tôi. Tôi còn nhớ mỗi khi anh em đi lao động về lại kêu tôi “bác Ti ơi! Bác Ti ơi”, và nói các tin tức bên ngoài để an ủi tôi .
Cũng thời gian này vợ tôi và 2 cháu ra thăm.Chúng cho một tên tù hình sự nói qua khe cửa: Anh hai ơi, chị và 2 cháu ra thăm, khóc quá mà chúng không cho thăm. Tới giờ cơm trưa hôm đó, tên cán bộ trực trại cố ý để cửa lâu và không nói một lời nào và chỉ chờ tôi xin cho vợ con thăm. Tôi suy nghĩ: nếu mình xin chúng sẽ cho nhưng chúng sẽ có điều kiện với mình hoặc là phải nhận tội lỗi hoặc là khai báo những điều bất lợi cho anh em. Do đó tôi quyết định không xin và tên cán bộ cũng không nói gì.Kết quả là sau khi chờ hai ngày chúng không cho thăm và cũng không cho gửi một tí quà nào, nhà tôi và các cháu đành phải ra về. Qua mấy ngàn cây số lặn lội mới tới nơi mà vợ không được thấy mặt chồng, con không được thấy mặt cha. Lúc đó dù rất khổ đau nhưng tôi không ân hận về chuyện này và các chiến hữu buồng bên cũng đồng ý.
Bạn Chí bị nhốt một thời gian khá lâu thì chúng mới cho về đội.
Một thời gian sau thì chúng đem tôi xuống trại kỷ luật phân trại B nhốt với anh Ngọc, anh Khôi, anh Thời, anh Cương, anh Thông, anh Sinh.
Suốt thời gian tôi bị giam ở phòng tối, chúng theo dõi sự liên lạc của tôi với các anh em và xem tôi có cùng anh em làm điều gì nữa không.Chính vì thế mà chúng nhốt tôi ở một phòng cạnh phòng của các bạn bị đưa từ trại C qua.Chúng chỉ chờ tôi xin khai báo, nhưng tôi không hề nói hay xin chúng một điều gì.
Khỏang 9 tháng sau thì chúng đem tôi về nhốt tại trại kỷ luật ở phân trại A, nơi đây tôi đã nghe thấy hai phòng hai bên là phòng nhốt anh Cao Văn Bảy và Nguyễn Hữu Thời.
Đến tháng thứ 12, lúc đó sức đã quá yếu, mắt đã mờ chỉ còn da bọc xương. Vì nằm quá lâu, khi đứng lên máu khó khăn trong việc lưu thông nên không thể đứng vững và không thể còn sức để đi được.Một cán bộ công an bộ nội vụ vào thăm và thấy vậy ra lệnh cho cán bộ trực trại mở còng chân nhưng vẫn còn nhốt ở phòng kỷ luật.
Từ lúc đó, hàng ngày chúng cho tôi cố gắng tập đi ở phần sân trong khu kỷ luật.Mỗi ngày tôi tập đi bằng cách vịn vào bờ tường lê chân dần dần. Sau 2 tháng, bắt đầu đi hơi vững, tôi bắt đầu phải làm việc (từ này của chúng là tra hỏi và khai báo) với chúng.Việc đầu tiên là phải trả lời tên cán bộ bộ nội vụ những câu hỏi sau đây:
Cán Bộ: Anh là một trong 2 luật sư của Cảnh Sát Ngụy phải không?
Đáp: Đúng
Cán Bộ: Vậy anh phải giữ tư cách luật sư của chế độ Saigon để nói chuyện với tôi, anh nghe chưa ?
Đáp: Tôi nghe .
Cán Bộ: Anh còn làm việc cho CIA không?
Đáp: Tôi không bao giờ làm việc cho CIA .
Cán Bộ: Anh có xin tha kỷ luật không?
Đáp: Không, vì tôi đang bị kỷ luật, tôi xin cũng vô ích.
Cán Bộ: Anh lãnh đạo anh em chống đối phải không?
Đáp: Tôi không lãnh đạo ai, mà cũng không ai lãnh đạo được tôi.Nếu miền Nam chúng tôi chịu một người lãnh đạo duy nhất thì không có ngày nay.
Cán Bộ: Việc làm của anh trong thời gian qua có đúng không?
Đáp: Đúng, vì chúng tôi đã yêu cầu nhà bếp phải cải thiện chế độ dinh dưỡng cho anh em. Nhà bếp có thay đổi và như vậy chúng tôi đã làm đúng.
Sau đó hàng ngày chúng bắt tôi lên văn phòng viết kiểm điểm về những sinh họat của chúng ta. Tôi chỉ viết những điều công khai mà chúng đã thấy của anh em mình mà thôi .Tôi còn lợi dụng dịp này để viết về đời sống của Cảnh Sát Việt Nam Cộng Hòa Saigon được đãi ngộ đầy đủ và bao giờ cuối bài tôi cũng không quên thêm vào một câu để chúng dễ chấp nhận bài của tôi mà chúng không biết là câu này lại có tính cách miả mai. Câu đó là: “vì thế nên tôi không có “ tinh thần cách mạng” như cán bộ”. Đến phần tôi viết về “Cảnh tiếp vụ” của Việt Nam Công Hòạ, chúng đọc say sưa nhưng sực tỉnh là tôi viết có tính cách tuyên truyền nên chúng không cho viết nữa. Khi chúng bắt tôi ngưng viết thì chúng đã đọc quá nhiều rồi.
Đến đầu tháng giêng năm 1980, chúng đưa tôi về trại A thuộc đội mấy người hành chánh cao cấp của chế độ Saigon cũ. Tên cán bộ nội vụ nói anh còn yếu lắm nên tôi cho anh về đội người già chỉ lao động nhẹ thôi và sẽ được chích thuốc bổ.
Khi đến bệnh xá để chích thuốc, y tá là một tù nhân hình sự, vừa tới anh ta nói ngay: Đàn em của thằng Quang bên phân trại B đã nói với em về anh hai đã giúp thằng Quang, mặc dầu nó bị đâm chết nhưng tụi em vẫn nhớ ơn anh .Thuốc này tên là Philatop do bộ nội vụ đưa về để đặc biệt chích cho anh hai.Mỗi lần tới anh hai chỉ cần ký là có chích rồi, anh hai hiểu chứ. Đúng lúc đó có người đi tới nên tôi vội ký và được dẫn về đội.
Và cứ như thế trong vòng 2 tháng xuống bệnh xá tìm cách kín đáo để ký vào sổ là có chích thuốc rồi. Đến đây chắc bạn đã hiểu: nếu không có câu chuyện “Quang hình sự” thì tôi đã đi theo Lạc rồi.
Điều này xẩy ra vào tháng giêng năm 1980 Điều lạ là cũng tháng giêng năm 2001, tôi bị mổ tim “surgery open heart” và bypass 4 ống. Trước khi mổ, bác sĩ nói là tôi ở trong tình trạng còn 1% hy vọng sống, lúc đó tưởng đã đi gặp Lạc rồi, nhưng có lẽ Lạc không muốn gặp tôi mà muốn tôi tiếp tục làm những điều Lạc mong muốn khi còn ở trong trại
Các chiến hữu thân mến, hôm nay tôi cảm thấy vui vì đã có dịp viết để cám ơn các chiến hữu và hãnh diện về tinh thần bất khuất và đòan kết hiếm quý của chúng ta
Đêm nay là đêm 29 tháng 4 năm 2005, tôi vừa ở Khu Hội Tù Nhân Chính Trị dự Lễ Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận 30 tháng 4. Mọi người đều hướng về tưởng niệm các anh hùng tử sĩ đã hy sinh vì lý tưởng dân chủ tự do, chắc chắn trong đó có các chiến hữu của chúng ta đã hy sinh trong trại Lý Bá Sơ. Nếu như Lạc biết được điều này, tôi tin rằng Lạc sẽ ngậm cười nơi chín suối.
Thân ái kính chào các chiến hữu.
San Jose, 29 tháng 4 năm 2005
LS Ngô Văn Tiệp
LS Ngô Văn Tiệp
From TP Ngô Bút
___________________________________________________________________
From TP Đặng Xuân Thanh
___________________________________________________________________
Lá cờ Việt Nam Cộng Hòa (xin click vào đây để xem )
LS Nguyễn Vạn Bình
____________________________________________________________
JE CHANTE AVEC TOI LIBERTE
TÔI HÁT CÙNG BẠN TỰ DO ƠI
LS. NGÔ TẰNG GIAO (Phóng tác nhân ngày 30/4)
JE CHANTE AVEC TOI LIBERTE
Quand tu chantes, je chante avec toi, liberté
Quand tu pleures, je pleure aussi ta peine
Quand tu trembles, je prie pour toi liberté
Dans la joie ou les larmes, je t'aime
Souviens-toi des jours de ta misère
Mon pays, tes bateaux étaient tes galères
Quand tu chantes, je chante avec toi, liberté
Et quand tu es absente, j'espère
Qui es-tu? Religion ou bien réalité
Une idée de révolutionnaire
Moi je crois que tu es la seule vérité
La noblesse de notre humanité
Je comprends qu'on meure pour te défendre
Que l'on passe sa vie à t'attendre
Quand tu chantes, je chante avec toi liberté
Dans la joie ou les larmes, je t'aime
Les chansons de l'espoir ont ton nom et ta voix
Le chemin de l'histoire nous conduira vers toi
Liberté, liberté…
G. VERDI
______
TÔI HÁT CÙNG BẠN, TỰ DO ƠI!
Tự Do ơi! Bạn mến yêu
Khi mà bạn hát, tôi theo hát cùng,
Khi mà bạn khóc não nùng
Niềm đau của bạn tôi chung lệ sầu,
Khi mà bạn bị đảo chao
Tôi cầu cho bạn được mau tốt lành,
Tôi yêu quý bạn chân thành
Dù trong hoan lạc hay quanh lệ trào.
Bạn nhớ chăng những ngày nào
Bạn lâm vào cảnh khổ đau ngập tràn
Thời quê tôi cũng lầm than
Đồng thuyền ta chịu chung phần bi ai,
Khi bạn hát, Tự Do ơi
Tôi cùng hoan hỉ vang lời đồng ca
Và khi bóng bạn nhạt nhòa
Thời tôi hy vọng xót xa miệt mài.
Hỡi Tư Do bạn là ai?
Bạn là tôn giáo ở nơi chốn này
Hay là thực tại nơi đây
Tư duy cách mạng vần xoay lòng người,
Riêng tôi tin tưởng mãi thôi
Bạn là chân lý tuyệt vời độc tôn
Mãi thanh cao, mãi trường tồn
Đỉnh cao hy vọng của nhân loại mình,
Tôi thường thông hiểu tận tình
Có người mạng sống hy sinh chẳng màng
Mong bảo vệ bạn an toàn
Tư Do yêu quý vô vàn thiết thân,
Có người suốt quãng đường trần
Mãi mong chờ bạn âm thầm khôn nguôi,
Khi bạn hát, Tư Do ơi!
Tôi luôn cùng bạn cất lời hoan ca
Dù trong vui thú thăng hoa
Hay qua dòng lệ chan hoà đắng cay,
Lòng tôi ấp ủ lâu nay
Tình yêu quý bạn đắm say một đời.
Bài ca hy vọng khắp nơi Đều ghi tên bạn với lời thiết tha
Mang tiếng nói bạn vang xa,
Con đường lịch sử mở ra rạng ngời
Dẫn đường chỉ lối chúng tôi Hướng về phía bạn, chân trời đẹp tươi
Tự Do ơi! Tự Do ơi!...
LS. NGÔ TẰNG GIAO (Phóng tác nhân ngày 30/4)
TƯỞNG NIỆM LS NGUYỄN HỮU HIỆU
VÀI HÀNG VỀ LUẬT SƯ NGUYỄN HỮU HIỆU
Nguyễn Hữu Hiệu sinh ở Hải Phòng trong một gia đình Cha họ Nguyễn Hữu làng Tây Mỗ Hoài Đức Hà Đông, Mẹ họ Hà làng Nhân Lộ Quảng Hóa Thanh Hóa. Thuở nhỏ học ở nhà rồi sau đó theo học tại Trung Học Đào Duy Từ, Lam Sơn Thanh Hóa.
Bị bắt giam tại công an Vĩnh Lộc (1953-54) rồi nhận lệnh quản thúc 30 năm tại Vạn Thiện Nông Cống Thanh Hóa về tội “con địa chủ phản động”.
Trốn vào Nam trong phong trào di cư cuối tháng chạp năm 1954 Nguyễn Hữu Hiệu lần lượt theo học tại các trường Trung Học Hồ Ngọc Cẩn, Pétrus-Ký, rồi lên học tại Đại Học Văn Khoa và Đại Học Luật Khoa Saigon. Sau khi rời Đại Học Nguyễn Hữu Hiệu làm luật sư tại Saigon (1961-1975), dân biểu Quốc Hội Lập Hiến (1966- 1967), dân biểu Quốc Hội Lập Pháp (1971-1975), chủ tịch Ủy Ban Tư Pháp Định Chế (1971-1972), Tác giả dự án bãi bỏ án tử hình tại Việt Nam Chủ nhiệm kiêm chủ bút Nguyệt San Chính Danh (1974-1975).
Sau năm 1975 Nguyễn Hữu Hiệu bị bắt và bị tù giam tại các “trại cải tạo” Long-Châu-Hà (1975) Long Thành (1975- 1976), Phú Sơn 4 Bắc Thái (1976-1979), Thanh Phong - Thanh Hóa (1979-1981), Z.30A - Xuân Lộc (1981-1983) và Trung Tâm bài lao PNT (1983-1985). Sau khi ra trại tù, vượt biên, có ở tại các trại tỵ nạn Longgiai, Phanat Nikhom Thái Lan, Bataan Phi Luật Tân (1988-1989).
Đến Mỹ tháng giêng 1990. Học lại ở Mỹ từ đầu. Tốt nghiệp A.A. in Philosophy hạng danh dự tại Chaffey College (1993), B.A. in English Writing hạng ưu tại University of Redlands (1995). Tờ Daily Bulletin ở California Hoa Kỳ trong số báo ngày Chủ Nhật 29 tháng 5 năm 1994 có đăng tải một bài báo của ký giả Cameron Coulter viết về Nguyễn Hữu Hiệu. Trong đó ký giả này đã nhắc lại lời của giáo sư Bea Rose, giáo sư Triết học của Trường Chaffey như sau: “Hiệu có lẽ là một trong số các sinh viên rất hấp dẫn mà chúng tôi được gặp và ông đã vượt qua được nhiều nỗi trở ngại khốn khó hơn các người khác mà tôi từng hay biết”. Ký giả này viết tiếp: “Những nỗi khốn khó trên bao gồm cả cảnh tù đày, việc hai người con bị chết, việc người vợ bỏ ra đi và bệnh ho lao hành hạ. Trong khi đa số các người Việt tị nạn không tìm được phương tiện để bỏ nước ra đi hầu tránh sự khổ đau sau cuộc đổi đời thì Hiệu đã có dư cơ hội để vượt thoát sớm. Trước khi Saigon sụp đổ, vào lúc những toán quân miền Bắc Việt Nam tiến gần vào thành phố, những người đồng viện thuyết phục Hiệu ra đi với họ theo cuộc di tản của Hoa Kỳ, nhưng ông ta đã từ chối”.
Vào năm 2001 một số bài thơ của Nguyễn Hữu Hiệu đã được xuất bản, gom lại thành một tập thơ mang tựa đề:“BỐN MƯƠI NĂM (1953-1993) THƠ NGUYỄN HỮU HIỆU”. Một vài bài thơ sau đây được trích trong tập thơ nói trên để gọi là một chút kỷ niệm với một bạn đồng nghiệp khả kính, một nạn nhân của Cộng Sản sau tháng 4 năm 1975.
LS. Ngô Tằng Giao (Tháng 4 năm 2015)
Những vần thơ ngậm ngùi của nạn nhân
trong trại tù “học tập cải tạo” của cộng sản
(Xin click vào trên để đọc)
Truyện ngắn: NỖI BUỒN CÒN ĐÂY (LS. NGUYỄN HỮU HIỆU)
Nguyên tác: Still here, Sadness
(Trích trong tuyển tập TÔ CHÁO RẮN The Bowl of Snake Soup)
Chuyển ngữ: LS. Ngô Tằng Giao
(Xin click vào hình LS Nguyễn Hữu Hiệu để đoc chuyện)
___________________________________________________________________
From LS Nguyễn Hữu Thống (trích từ bài Kẻ sĩ dấn thân vì đại nghĩa)
...tại Nam Cali, Luật Sư Trần Danh San cũng ra người thiên cổ. Anh sáng lập phong trào đòi tự do nhân quyền cho Việt Nam. Đồng thời với việc ban hành Hiến Chương 77 tại Prague, ngày 23-4-1977, Anh đã tuyên đọc tại khuôn viên Nhà Thờ Đức Bà Saigon “Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Những Người Viết Nam Khốn Cùng”. Kết quả Anh đã bị giam giữ 12 năm tại trại cải tạo cùng với các Luật Sư Nguyễn Hữu Giao, Trần Nhật Tân, Triệu Bá Thiệp, Vũ Hùng Cương và Thủ Lãnh Vũ Đăng Dung tại Luật Sư Đoàn Huế. Trong thời gian này Luật Sư Khuất Duy Trác cũng bị bắt giam 12 năm, 6 năm về tội “tuyên truyền chống chế độ” và 6 năm về tội sĩ quan biệt phái. Sau khi Cộng Sản cướp chính quyền tại Miền Nam để thiết lập chế độc tài đảng trị, trong vòng 2 năm, từ 1975 đến 1977 có ít nhất 14 luật sư đã tuẫn tiết hay bị giam giữ. Luật Sư Trần Chánh Thành đã quyên sinh không chịu khuất phục bạo quyền, Các vị khác đã đứng lên tố cáo Nhà Cầm Quyền Hà Nội vi phạm nhân quyền và những quyền tự do căn bản của người dân. Cuối năm 1975, trong vụ án Vinh Sơn, Luật Sư Nguyễn Khắc Chính bị kết án tù chung thân về tội “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân”. Qua năm 1976, Luật Sư Trần Văn Tuyên, Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn Saigòn đã tuẫn tiết tại trại cải tạo Hà Tây. Sau đó, 3 người con trai Trần Vọng Quốc, Trần Tử Thanh và Luật Sư Trần Tử Huyền đã bị kết án 12 năm, 5 năm và 3 năm về tội “tuyên truyền chống chế độ”. Đồng thời Luật Sư Thủ Lãnh Lý Văn Hiệp đã bị kết án 12 năm tù cũng về tội này.Ngoài ra, các Luật Sư Nguyễn Quý Anh và Nguyễn Hữu Doãn cũng bị giam 18 tháng về tội giả tạo nói trên. Trong số 14 luật sư nói trên, cho tới nay ít nhất có 6 vị đã ra người thiên cổ là các Luật Sư Trần Chánh Thành, Trần Văn Tuyên, Vũ Đăng Dung, Trần Danh San, Nguyễn Hữu Giao và Nguyễn Quý Anh.
Cùng với các tầng lớp trí thức khác như bác sĩ và gíao sư, giới luật sư đã đứng lên tranh đấu đòi tự do nhân quyền ngay từ khi Ðảng Cộng Sản thiết lập chế độ độc tài vô sản tại Miền Nam. Lý do là vì người luật sư có truyền thống bất khuất không chấp nhận chuyên chế và bạo hành.
Từ thời Napoleon giới luật sư vẫn là kẻ thù số một của các chế độ độc tài. Thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, Luật Sư Ðoàn Sàigòn đã phản kháng chính sách cưỡng bách học tập chính trị. Các luật sư đã công bố lập trường trên báo chí đòi phải có thuyết trình và thảo luận về đường lối và chính sách quốc gia, thay vì học tập một chiều như trong các chế độ độc tài toàn trị. Vì không có thuyết trình viên đủ sức thuyết phục, kết cuộc Chính Phủ đã phải hủy bãi chương trình học tập chính trị tại Luật Sư Ðoàn Sàigòn. Và Công Tố Viện đã thâu hồi khởi tố lệnh trạng về tội “nhục mạ nhà cầm quyền”. Do giáo dục và sinh hoạt nghề nghiệp trong môi trường đối thoại, người luật sư chấp nhận đối lập thường xuyên giữa luật sư và biện lý, luật sư và chánh án, luật sư và đồng nghiệp. Nhờ đối thoại, tranh luận, biện minh và thuyết phục để đi đến hòa giải, thỏa hiệp hay đồng thuận, người luật sư được hấp thụ tinh thần đấu tranh công khai, ôn hòa, bất bạo động trong việc đề xướng và tôn trọng Sự Thật và Công Lý. Dầu sao, về lương tâm và chức nghiệp, người luật sư phải giữ chính trực, vô tư, ôn hòa và tình đồng nghiệp để duy trì hòa khí và tương thân tương kính, mà nếu thiếu vắng, pháp đình tôn nghiêm sẽ trở thành đấu trường hỗn loạn....
___________________________________________________________________
Đừng Quên Mối Thù Quốc Hận 30/4
LS Nguyễn Văn Chức
Cách đây gần 36 năm, trong phiên họp Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc tại Genève ngày 21.7.1979 về vấn đề Đông Dương, Cao Uỷ Tỵ Nạn của Liên Hiệp Quốc đã long trọng tuyên bố trước thế giới rằng tất cả những người Đông Dương bỏ nước ra đi sau biến cố 1975 đều là Tỵ Nạn Chính Trị và đuợc hưởng quy chế Tỵ Nạn Chính Trị. Đó là quy chế của Liên Hiệp Quốc, trên bình diện luật pháp của Liên Hiêp Quốc. Chúng ta nên nhớ lúc đó là thời cực thịnh của Trung Cộng, Liên Sô, Đông Âu và những nuớc không liên kết.
Tất cả cái khối ấy đè nặng lên Liên Hiệp Quốc. Đọc lại tài liệu xưa, chúng ta thấy tiến sĩ Kurt Waldeim, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thời đó , đã phải vô cũng thận trọng. Có hiểu như vậy, chúng ta mới ý thức trọn vẹn đuợc lời tuyên bố của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc liên quan đến quy chế tỵ nạn chính trị của Người Việt Tỵ Nạn. Phải chăng Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đã nhìn thấy sự thật, nhưng không thể nói ra. Sự thật đó, là cuộc ra đi của Người Việt Tỵ Nạn đứng ở một bình diện cao hơn bình diện của quy chế và của luật pháp, kể cả quy chế và luật pháp Liên Hiệp Quốc. Đó là bình diện của Con Người VN, của nhân dân VN và của dân tộc VN.
Thực vậy, ròng rã hơn mười thế kỷ, giặc Tầu đô hộ nhân dân ta, và phạm muôn vàn tội ác đối với nhân dân ta. Những tiếng thét căm hờn trong bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi không những chỉ áp dụng riêng cho quân Minh, mà áp dụng cho toàn thể ách đô hộ của giặc Tầu, một ách đô hộ vô cùng man rợ: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ, bại nhân nghĩa nát cả càn khôn, nặng khóa liễm vét không sơn trạch”. Nhưng, Lịch Sử Còn Đó, Người Việt Không Bỏ Nước Ra Đi.
Giữa thế kỷ 19, giặc Pháp xâm lăng nước ta, “đô hộ và đầy đoạ dân ta”. Tại đại hội Đảng Cộng Sản quốc tế lần thứ 5 ở Mạc tư Khoa tháng 7 năm 1924, trong tài liệu Người Cùng Khổ (Le Paria) và Bản Cáo Trạng Chống Chế Độ Thực Dân Pháp (Le Procès Contre le Colonianisme francais) -- do cụ Nguyễn Thế Truyền và Ls Phan Văn Truờng viết -- Nguyễn Ái Quốc, tức tên giặc già Hồ Chí Minh, đã lớn tiếng tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta. Nguyễn Ái Quốc cũng đã kể ra muôn vàn thống khổ của nhân dân ta dưới ách thực dân Pháp. Nhưng, lịch sử còn đó, người Việt không bỏ nước ra đi.
Năm 1945, giặc Nhật xâm chiếm và tàn phá nước ta. Trận đói năm Ất Dậu (1945), hai triệu dân ta chết thê thảm. Nhưng, lịch sử còn đó, người Việt không bỏ nước ra đi Năm 1956, “đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam , và phạm muôn vàn tội ác đối với nhân dân VN”-- tôi vừa nhắc lại lời của tên giặc già Hồ Chí Minh.. Nhưng, lịch sử còn đó, người Việt không bỏ nước ra đi. * * *
Nhưng năm 1954, khi Việt Cộng tiếp thu miền Bắc, thì gần một triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam. Và tháng Tư năm 1975, khi Việt Cộng tiếp thu Miền Nam thì hàng trăm ngàn người Việt bỏ nước ra đi. Rồi sau đó, đằng đẵng hơn 10 năm , khoảng ba triệu người Việt đã bỏ nước ra đi. Người Việt bỏ nuớc ra đi, không phải để tránh thiên tai bệnh tật. Mà vì một sứ mạng: đem tự do về cho quê hương đất nước. Người Việt bỏ nước ra đi, đại đa số với hai bàn tay trắng. Họ phải vuợt qua cả một đại dương đầy sóng gió, trên những con thuyền mong manh, làm mồi cho đói khát, bão tố và cướp biển. Và khi ra đi, họ đã cầm sẵn cái chết trên tay. Bao nhiêu gia đình đã chết trên biển cả! Bao nhiêu gia đình đã bị cướp bóc, bị hành hạ, bị đánh đập, và bị giết trên biển cả! Bao nhiêu phụ nữ, em bé gái, đã bị hải tặc hãm hiếp dã man, đánh đập, và bắt mang đi mất tích! Thế mà Người Việt vẫn lũ lượt ra đi. Tại Sao Lại Có Hiện Tượng Kỳ Lạ Đó? Chắc chắn không phải vì họ không chịu được sự kham khổ trong cái chế độ mang tên Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, như tên thủ tướng VC Phạm Văn Đồng đã tuyên bố trước Hội Nghị Các Nước Không Liên Kết tại Cuba năm 1978. Bởi lẽ giữa cái khổ và cái nguy hiểm đến tánh mạng, con nguời vẫn chọn cái khổ. Nhất là đối với người Việt Nam, thà lam lũ trên quê huơng mình, còn hơn tha phương cầu thực; thà yên phận bên cạnh mồ mả ông cha, còn hơn mất xác trên sông trên biển, hoặc gửi xác nơi quê nguời.
Câu hỏi lại đuợc đặt ra: tại sao người Việt bỏ nước ra đi? Đến đây, chúng ta hãy nhìn vào lịch sử thế giới. Năm 1945, khi Đức Quốc Xã xâm lăng và thống trị Đông Âu, dân chúng địa phương không bỏ nước ra đi. Nhưng khi cộng sản lên cướp chính quyền, thì dân chúng điạ phương lũ lượt ra đi. Ba Lan, Hung Gia Lợi, Bảo Gia Lợi, Tiệp Khắc, Lỗ Ma Ni, Đông Đức, v. v... Rồi sau đó là Trung Hoa, A Phú Hãn, Cu Ba. CS đến đâu, thì ở đó “đồng bào ruột thịt” chạy trốn. Chạy trốn chính những kẻ đến giải phóng họ. Cách đây gần 40 năm, năm 1969, trong chuyến đi dự Đại Hội Liên Hiệp Nghị Sĩ Quốc Tế (Union Interparlementaire) tại Hoà Lan, tôi gặp một ông già Ba Lan làm nghề khuân vác. Tôi hỏi tại sao lại bỏ nuớc ra đi. Ông nói: “Quân Đức đến, dân chúng tôi không ra đi, nhưng cộng sản đến, dân chúng tôi phải ra đi. Sống dưới chế độ cộng sản, là cả một sự tuyệt vọng, Tuyệt vọng không đuợc làm người. Cộng sản vừa là quỷ vưà là súc vật.”
Thì ra, tỵ nạn cộng sản không phải là vấn đề của Người Công Dân chống lại Nhà Nước, nhân danh quyền chính trị. Cũng không phải là vấn đề chạy trốn một thiên tai ôn dịch. Mà là vấn đề của Con Người chống lại Quỷ và Súc Vật, nhân danh quyền làm người. Hiển nhiên, trên thế giới, không cộng sản nào quỷ và súc vật bằng cộng sản VN. Và trên thế giới, không dân tộc nào tha thiết đến quyền làm người bằng dân tộc VN. Hai sự kiện này đã giải thích một sự kiện thứ ba: trong lịch sử nhân loại tự cổ chí kim, chưa có cuộc ra đi nào đông đảo, ròng rã, thê thảm nhưng can trường, bằng cuộc ra đi của Người Việt Tỵ Nạn.
Lịch sử nhân loại sẽ mãi mãi nhắc đến cuộc ra đi này. Và lịch sử sẽ không quên ghi nhận một điều: chúng ta, Người Việt Tỵ Nạn, đã chịu đựng tất cả bất trắc khổ sở nhục nhằn hiểm nguy, để tồn tại. Không tồn tại như những người ra đi vì cơm áo hoặc vì thiên tai. Mà tồn tại như những ngừời ra đi vì tự do, với sứ mạng đem tự do về cho quê hương đất nước. Tồn tại để vươn lên, và tổn tại để chiến thắng. Nhìn lại bốn mươi năm qua, chúng ta có quyền tự hào. Chúng ta đã vươn lên và đã chiến thắng. Vươn lên và chiến thắng cùng với là cờ vàng ba sọc đỏ ngạo nghễ khắp năm châu. Hơn ai hết, Việt Cộng đã ý thức được điều đó. Nghị Quyết số 36/NQ/TU ngày 24/3/2004 của chúng đã mặc nhiên nhìn nhận rằng người Việt Tỵ Nạn không ra đi vì miếng cơm manh áo, cũng không ra đi để tránh thiên tai bệnh tật , mà ra đi vì một sứ mạng lịch sử. Sứ mạng đó, là cùng với nhân dân trong nuớc đấu tranh đem tự do dân chủ cho quê hương VN.
Trong chuyến đi Úc và đi Mỹ hồi tháng 5 và tháng 6 năm 2005 tên thủ tuớng VC Phan Văn Khải cũng đã nhìn thấy sự thật, khi ôm đầu chạy như con chó trước hàng ngàn đồng bào hải ngoại và lá cờ vàng ba sọc. Khỏi cần nói đến chuyến đi Mỹ chữa bệnh của tên viện trưởng cò mồi rẻ tiền Hoàng Minh Chính tháng 10/2005. * * *
Trong đại tác phẩm The Gulag Of Archipelago cũng như trong bài diễn văn nhận giải Nobel năm 1970, văn hào Solzhenitsyn đã lớn tiếng suy nghĩ: “Tội ác lớn nhất của những nguời được hưởng tự do là im lặng.” Im lặng trước những tội ác của bạo quyền CS. Im lặng truớc những thống khổ của đồng bào mình đang phải sống dưới ách bạo quyền CS.
Dương Thu Huơng, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Vũ Bình, Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn,v,v.. Họ là ai? Họ là những người đang sống trong tầm huỷ diệt của bạo quyền, nhưng đã dám đứng lên vạch mặt tội ác cuả bạo quyền, bất chấp ngục tù và coi thường cái chết. Chúng ta ở hải ngoại, nghĩ gì truớc những tấm gương anh hùng ấy? Tôi vừa đặt câu hỏi, và xin trả lời: Từ bốn mươi năm nay, chúng ta đã không ngừng chiến đấu để đem lửa chiến đấu về quê hương, đồng thời đem lửa chiến đấu từ quê hương ra hải ngoại. Những đoá hoa mà chúng ta ở hải ngoại dâng lên mẹ Việt Nam đẹp lắm, và gồm đủ mầu sắc. Mầu sắc cuả báo chí chống cộng, của văn hoá chống cộng, của anh em cựu chiến sĩ QLVNCH chống cộng, của tập thể Người Việt Tỵ Nạn chống cộng. Và của lá cờ vàng ba sọc ngạo nghễ. . ***********
Hiện nay, cuộc chiến đấu chống bạo quyền của nhân dân ta trong và ngoài nước đang bước vào giai đoạn quyết liệt. Kẻ thù, tức bạo quyền Việt Cộng, ngày càng suy yếu, đang khi đó cường độ của chống đối ngày càng gia tăng. Có thể nói rằng chưa bao giờ bạo quyền VC lo sợ như bây giờ. Vì vậy chúng ta, Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản, lại càng phải tiến tới để cùng với đồng bào trong nước lật đổ bạo quyền, và thay thế vào đó bằng môt chính quyền cuả dân, bởi dân và vì dân trong một cuộc tổng tuyển cử – tôi xin mượn lời cuả Mikhael. S. Gorbachev – hợp pháp, lương thiện và dân chủ.. Và chúng ta đừng quên Việt Cộng hiện đang phải căng da mặt, che hàm răng chó sói, để “hoà hợp dân tộc”, để “xây dựng dân chủ”, để đánh lừa dư luận, nhất là dư luận Mỹ bằng cách: tổ chức bầu cử một quốc hội tay sai có những đại diện hải ngoại về tham dự, những thứ vô liêm sỉ như …. Kêu gọi hải ngoại quên đi quốc hận 30/4. …….. ***********
Chúng ta đã đánh đuổi những tên lãnh đạo CS chạy như con chó. Chúng ta đã lột mặt nạ những tên Việt Gian và bè lũ đón gió điếu đóm. Hiển nhiên, những hành động nói trên của chúng ta không phải cũng như không thể là của những người tỵ nạn một thiên tai. Những hành động ấy chỉ có thể phát xuất từ những ngừời Việt Nam coi cộng sản là kẻ thù cần phải huỷ diệt.
Hỡi đồng bào tỵ nạn CS, hỡi Người Quốc Gia, hỡi các anh chiến sĩ QLVNCH đã chết trên chiến trường cũng như đã chết trong ngục tù cộng sản! Máu cuả các Anh cùng với mồ hôi nước mắt của đồng bào trong nước, vẫn còn đó, không khô đi, không tan đi, mà sẽ đọng mãi trên quê hương Việt Nam, bao lâu quê hương Việt Nam còn quằn quại dưới ách của bạo quyền.
Hỡi đồng bào tỵ nạn, hỡi đồng bào trong nước! Đừng quên rằng đảng CSVN, từ thời Hồ Chí Minh cho đến nay, là kẻ thù đểu cáng nhất và tai hoạ lớn nhất của nhân dân ta kể từ ngày lập quốc. Đó là Sự Thật. Của thế kỷ. Của lịch sử. Và cuả muôn đời. Nhân danh sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ Quốc Gia đã nằm xuống, nhân danh sự sống còn của dân tộc Việt Nam, và vì những thế hệ mai sau, chúng ta hãy nói lên và đấu tranh cho Sự Thật. Bởi vì : chỉ có Sự Thật mới kết hợp đuợc lòng nguời. Chỉ có Sự Thật mới chiến thắng được bạo lực và lật đổ bạo quyền. Chỉ có Sự Thật mới giải thoát được quê hương chúng ta. Sự Thật là sức mạnh lớn nhất, và cũng là sức mạnh mà CSVN khiếp sợ nhất. “Một lời của sự thật cân nặng hơn vũ trụ ( A Word of Truth Outweighs the World)” Người tù khổ sai và cũng là đại văn hào Nga Solzhenitsyn đã dùng câu nói trên để kết thúc bài diễn văn nhận giải thưởng Nobel năm 1970. Đêm nay, mái đầu bạc gục trên di ảnh những anh hùng Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Trần văn Hai, Lê Văn Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, và đêm nay, tưởng nhớ các chiến sĩ QLVNCH đã hy sinh cho tổ quốc Việt Nam thân yêu, tôi xin được nói câu nói trên, và thét lớn: “Hỡi Đồng Bào Trong và Ngoài Nước! Hỡi Anh Em Cựu Chiến Sĩ QLVNCH! Hãy Đánh Giập Đầu Sự Phản Bội và Đừng Quên Mối Thù Quốc Hận 30/4”
LS NGUYỄN VĂN CHỨC
Cựu Sĩ Quan Quân Lực VNCH (Khoá I Nam Định)
Cựu Luật Sư Toà Thượng Thẩm Sài Gòn,VNCH
Cựu Chủ Tịch Uỷ Ban Tư Pháp Định Chế Thượng Nghị Viện, VNCH
Nguyên Tổng Thư Ký Liên Đoàn Công Giáo VN Tại Hoa Kỳ.